Thứ Bảy, 6 tháng 8, 2011

[Javascript] Document Object



Each HTML document loaded into a browser window becomes a Document object.
The Document object provides access to all HTML elements in a page, from within a script.
Tip: The Document object is also part of the Window object, and can be accessed through the window.document property.


Read more ....

Thứ Sáu, 5 tháng 8, 2011

AdSense API from Scratch Part 1 - Getting Started




One of the most common issues AdSense API developers face is how to get started, particularly due to the challenges posed by using SOAP.



This blog post is the first in a series that will teach you how to build an AdSense API application from scratch. This is our attempt at providing some improved starter documentation, by describing the whole process from zero to an AccountService-enabled implementation of the AdSense API, using best practices.

Our choice of technology for this series is PHP 5 with native SOAP support, for several reasons:

it’s one of the easiest to set up;
it’s one of the most common choices for existing AdSense API developers;
it has the benefit of clear and concise code examples that should be readable to most web developers.




It should still be useful to other developers, however, even if they’re not using these technologies; the best practices we discuss are language-independent.




Prerequisites


To follow this guide, you will need:
    SoapClient (may require compiling PHP with --enable-soap or installing a separate package, depending on your setup) SSL support (may require compiling PHP with --with-ssl or installing a separate package, depending on your setup)
To ensure that you’re set up correctly, try the following:

$ php --re soap
$ php --re openssl





If neither of these commands returns an error, you’re on the right track.




Now let’s try to make a request to make sure we can connect to the AdSense API. For this first part, we’ll attempt to create a publisher account with the AccountService.



Accessing the AccountService


In order to handle the mapping between SOAP and PHP objects in a user-friendly manner, SoapClient requires a WSDL. We’ll also need to configure the namespace that AdSense API SOAP objects exist in, so that they may be instanced correctly.

$wsdl = 'https://sandbox.google.com/api/adsense/v3/AccountService?wsdl';$namespace = 'http://www.google.com/api/adsense/v3';





However, we don’t want to retrieve a new version of this WSDL every time we connect to a service, so we’ll need to do some caching. Fortunately, SoapClient has features to handle caching automatically, which we’ll use:

$options = array('features' => SOAP_SINGLE_ELEMENT_ARRAYS,'encoding' => 'utf-8','compression' => SOAP_COMPRESSION_ACCEPT | SOAP_COMPRESSION_GZIP,'user_agent' => 'PHP-SOAP/'. phpversion() . ',gzip','cache_wsdl' => WSDL_CACHE_BOTH);$accountService = new SoapClient($wsdl, $options);




We’re also enabling GZip compression, so that all communication between our application and the AdSense API servers can be compressed.



Request headers




In the AdSense API, authentication is performed via the use of SOAP headers. For account creation, we only need to provide the developer email and password. We’ll set the display locale as well, to show how easy it is to get the AdSense API to work in your language.




Using SoapClient, the setup is relatively straightforward:

$developer_email_header = new SoapHeader($namespace, 'developer_email',
'INSERT_DEVELOPER_EMAIL_HERE');$developer_password_header = new SoapHeader($namespace, 'developer_password','INSERT_DEVELOPER_PASSWORD_HERE');$display_locale_header = new SoapHeader($namespace, 'display_locale','en_US');$accountService->__setSoapHeaders(array($developer_email_header, $developer_password_header, $display_locale_header));




Making the request




All that’s left now is making the actual request, according to the reference documentation for createAccount:

try { $result = $accountService->createAccount(array('loginEmail' => 'INSERT_PUBLISHER_EMAIL_HERE','entityType' => array('value' => 'Individual'),'websiteUrl' => 'http://www.test.com','websiteLocale' => 'en','usersPreferredLocale' => 'en_US','emailPromotionsPreference' => true,'synServiceTypes' => array( array('value' => 'ContentAds'), array('value' => 'SearchAds')),'developerUrl' => 'code.google.com'));} catch (SoapFault $e) { print_r($e);exit(1);}




This will attempt to create an account with two syndication service types, and print out an exception if it fails. If it doesn’t, we can display the results by doing:

if (isset($result->return)) {foreach ($result->return as $ad_client) {print "Ad client of type \"" . $ad_client->type->value . "\" and id \"". $ad_client->id . "\" was added.\n";}}




That’s it for our first API call! You can find the full example here.



Account Association




Association is very similar to creation, with the difference that instead of creating a new AdSense account, you’re simply linking to an existing AdSense account belonging to your user. The request takes different parameters, namely the phone number and postal code hints:

if (isset($result->return)) {foreach ($result->return as $ad_client) {print "Ad client of type \"" . $ad_client->type->value . "\" and id \"". $ad_client->id . "\" was added.\n";}}


Next steps




Next week we’ll be taking a deeper look at account creation and association, with a focus on error handling and other best practices.




In the meantime, if you have any questions or comments, be sure to let us know in the forum!


Read more ....

Cơ Hội Việc Làm Trong Ngành Công Nghệ Thông Tin


Tuần trước, sinh viên trong lớp của tôi (Giáo sư Vũ) có biểu hiện mệt mỏi và lo lắng, vì thế, tôi hỏi họ có điều gì không thoải mái hay sao. Một sinh viên nói rằng: “Đó là vì tình hình kinh tế hiện nay, tất cả bọn em đều lo cho tương lai sau này vì bọn em sẽ tốt nghiệp sang năm mà (hiện tại) không có gì tốt cả.”

Tôi bảo với họ rằng: “Thầy có theo dõi thị trường lao động và thấy rằng dù có khủng hoảng tài chính, giá cả gia tăng, trong khi lượng mua bán thì lại giảm, nhưng việc tuyển người trong ngành phần mềm vẫn có những tín hiệu tốt. Điều các em sinh viên cần hiểu là các em phải có những kỹ năng mà thị trường đang cần đến. Ví dụ, có rất nhiều công việc cho những người làm phần mềm có kinh nghiệm xây dựng các ứng dụng không dây. Một nhu cầu lớn nữa là đối với những người có hiểu biết về các ứng dụng Hệ thống Thông tin như SAP hay PeopleSoft.”

Một sinh viên khác hỏi: “Nhưng làm thế nào chúng em có được những kỹ năng này, tại chúng chẳng được dạy trong trường học?”

Tôi trả lời các em sinh viên là: “Đúng là nhiều trường không có dạy những ứng dụng ‘Phần mềm Thương mại Có sẵn’ (Commercial Off The Shelf - COTS) nhưng tất cả các em đều đã học môn ‘Giới thiệu Hệ thống Thông tin Quản lý’ có nói về ERP (Enterprise Resource Planning), CRM (Customer Relations Management) và tất cả các em đều đã học nhiều lớp lập trình với các kỹ năng về Java và C++, (cũng như) các em đều biết Linux, Windows, Unix. Với những kỹ năng đó, các em đều có thể thiết kế và phát triển các ‘ứng dụng cho toàn doanh nghiệp’ như SAP, PeopleSoft.”

Tôi có thể thấy cả lớp đều thở phào. Nhiều sinh viên bắt đầu mỉm cười nói: “Chúng em không biết về điều đó, nhưng những môn đó đều học trong năm một và năm hai. Nên chúng em đã không nghĩ rằng những môn học đó là quan trọng.”

Tôi bảo với họ: “Vấn đề là ở chỗ đó; nhiều người trong số các em (ở đây) quên mất những gì đã học và cách áp dụng chúng vào nghề nghiệp sau này. Các em thử nghĩ cái gì là quan trọng khi đi làm trong ngành (phần mềm)? Nếu các em học hành không nghiêm túc và không nghĩ về việc sẽ sử dụng các kiến thức đã học ra sao (cho sau này) thì các em đã bỏ phí thời gian ở trường rồi. Kiến thức học được phải được dùng để xây dưng các kỹ năng. Có được các kỹ năng này, các em có thể làm được nhiều điều, đi được nhiều nơi, và làm được việc trong nhiều mảng chuyên môn. Ngày nay, có được các kỹ năng Công nghệ Thông tin là một yêu cầu trong nhiều nghề nghiệp, trong khi tất cả các em đều chuyên về ngành này cả. Nên về cơ bản, các em đã có lựa chọn đúng khi đã học đúng ngành và đúng lúc.”

Tôi tiếp tục nói: “Tháng trước, IBM có làm một điều tra với các sinh viên đại học. 80% trong số hơn 1,600 sinh viên được điều tra đã nói rằng họ biết họ sẽ bắt gặp những kỹ thuật mới cần phải học khi (bắt đầu) đi làm trong nghề. Hơn 50% sinh viên thì đang tìm cách cải thiện các kỹ năng kỹ thuật của họ trước khi tốt nghiệp. 75% những sinh viên ngành Quản trị, Tài chính, và Kế toán hiện đang học (thêm) những lớp về ‘Công nghệ Thông tin’ và xu thế này có lẽ sẽ tiếp tục phát triển trong vài năm đến. Phó Chủ tịch IBM, ông Mark Hanny tuyên bố: ‘Kết quả điều tra cho thấy ngày nay, hầu hết các sinh viên đều hiểu là họ cần có các kỹ năng kỹ thuật dù làm việc cho doanh nghiệp ở bất kỳ ngành nào. Sinh viên đang nhận ra rằng họ có thể tìm được những việc làm tốt nếu họ biết về Công nghệ Thông tin.’”

Cả lớp học tỏ ra thoải mái hơn nhiều. Một sinh viên nói (tiếp): “Nhưng chúng em chỉ chuyên hẳn về Công nghệ Thông tin. Thầy có nghĩ rằng chúng em cũng có cơ tìm được việc tốt không?”

Tôi trả lời với các sinh viên rằng theo một người bạn của tôi hiện là chủ một công ty phần mềm thì khủng hoảng (tài chính hiện nay) không có nhiều ảnh hưởng đến ngành phần mềm vì nhiều công ty vẫn đang tái thiết công việc kinh doanh của họ để giảm thiểu lãng phí, cắt giảm chi phí, và cải thiện hiệu suất nên hầu hết các công ty vẫn tiếp tục tuyển dụng những người làm phần mềm để tự động hóa các quy trình của họ. Một trong những kỹ năng mà anh bạn của tôi cần đến là về Cơ sở dữ liệu, Kho dữ liệu, và Khai mỏ Dữ liệu, mà anh vẫn gặp khá nhiều khó khăn để tuyển đủ người có trình độ cho 50 vị trí (đòi hỏi các kỹ năng) như vậy. Tôi tin rằng nhiều nghề nghiệp trong ngành Công nghệ Thông tin không bị ảnh hưởng bởi những khó khăn của nền kinh tế vì dù cho có gì xảy ra, các công ty toàn cầu vẫn phải hoạt động và vẫn cần làm những công việc như xây dựng kiến trúc phần mềm, thiết kế phần mềm, lập mạng máy tính và điều hành hệ thống, phân tích các yêu cầu phần mềm, quản trị cơ sở dữ liệu, kiểm thử phần mềm, và đảm bảo chất lượng. Tôi biết rằng nhiều công ty toàn cầu lớn không thể tuyển được những nhân công có các kỹ năng như vậy ở nước của họ, vì thế họ quảng cáo tuyển dụng những vị trí đó ở Trung Quốc, Ấn độ, và Đông Âu với hy vọng sẽ tuyển được những người có kỹ năng tốt. Có thể thấy là mọi công ty đều đang cố gắng cải thiện cách thức kinh doanh của họ, để “thúc đẩy” hoạt động kinh doanh của họ trong điều kiện kinh tế khó khăn, và (vì thế) họ cần tuyển nhiều người làm phần mềm hơn nữa để giúp họ phát triển các ứng dụng ERP, SCM, và CRM. Điều thú vị cần nêu lên là hầu hết, nếu không muốn nói là tất cả, những nghề nghiệp mà xã hội có nhu cầu lớn được đề cập đến ở đây hầu như chưa hề tồn tại ở thời điểm 10 năm về trước. Vì thế, tôi luôn ủng hộ việc các sinh viên tiếp tục học thêm những kiến thức mới, nếu còn đi học thì cần đọc nhiều hơn nữa về các kỹ thuật mới; nếu đã đi làm rồi thì cũng nên trở lại trường học thêm ít nhất một đến hai lần trong một năm, giúp đảm bảo luôn cập nhật các kỹ năng của mình. Học suốt đời là cách duy nhất để đảm bảo các bạn sinh viên sẽ có được các khả năng, kiến thức, và kỹ năng mà thị trường lao động cần đến.

Theo dõi thị trường lao động, tôi thấy rằng có rất nhiều việc làm mới trong lĩnh vực Web 2.0 khi ngày càng có nhiều công ty tham gia kinh doanh trên mạng và nhiều công ty tìm cách liên lạc với khách hàng qua những kênh mới. Ngày nay, các công ty thường tuyển những người có kiến thức kỹ thuật rộng có thể áp dụng vào nhiều mảng công việc, nhưng đồng thời cũng cần có hiểu biết chiều sâu trong một mảng chuyên môn nhất định nào đó. Những yêu cầu như vậy đã khiến các đại học như Carnegie Mellon triển khai giảng dạy các môn học “đa lĩnh vực” trong các trường Kỹ thuật, Khoa học Máy tính và Quản trị Kinh doanh của họ. Dù cho bạn có chuyên về Quản trị, Tài chính, hay Thương mại thì học thêm các môn Công nghệ Thông tin hiểu từ một tầm nhìn rộng, là một cách tiếp cận đúng đắn; nó giúp sinh viên hiểu về việc kỹ thuật được áp dụng ra sao trong các doanh nghiệp để giúp liên tục hóa các hoạt động kinh doanh. Nếu phân tích khủng hoảng tài chính (hiện nay), bạn sẽ thấy là nhiều công ty toàn cầu lớn, đặc biệt là các công ty không phải trong ngành ngân hàng hay sản xuất xe hơi, vẫn tiếp tục phát triển. Họ hiểu rằng một khi cuộc khủng hoảng này kết thúc, sẽ xảy ra cạnh tranh lớn giữa họ với nhau để chiếm lĩnh thị trường thế giới, vì thế họ chuẩn bị cho “cuộc chiến” đó và đó là lý do vì sao tôi thấy được có rất nhiều nhu cầu tuyển dụng cho IT. Theo kinh nghiệm lịch sử, thì so với các ngành nghề khác, ngành phần mềm luôn ít chịu ảnh hưởng từ các suy thoái hay khủng hoảng kinh tế; trừ giai đoạn “nổ bong bóng dot-com” trong những năm 1999-2001 khi chi tiêu cho IT đã chậm lại nhưng vẫn không giảm đi.

Là một chuyên gia phần mềm, tôi khá lạc quan về tình hình chung của thị trường lao động IT. Tôi nghĩ rằng khủng hoảng tài chính sẽ khiến nhiều việc phải chậm lại hay bị trì hoãn, nhưng đó chỉ là tạm thời vì nhiều công ty vẫn chủ yếu dựa vào công nghệ để tiến hành các công việc kinh doanh của mình.



CMU DuyTan


Read more ....

CMU Giúp Kiến Tạo Sản Phẩm Mang Tầm Nhìn Lớn



Khi Apple mới hình thành ý tưởng cho iPhone, Freddy Anzures, sinh viên tốt nghiệp từ Carnegie Mellon đã ở đó. Là một trong số ít những người được chọn ra để tham gia thiết kế sản phẩm mang tầm nhìn lớn này, gần đây, Anzures đã về thăm lại Carnegie Mellon để nói về những gì anh đã làm được sau khi tốt nghiệp.

“Tôi đã rất may mắn ở đúng chỗ và đúng lúc,” anh nói. “Để được chọn vào một số ít những người tham gia phát triển sản phẩm mang tính cách mạng này thật sự là một vinh dự lớn.”

Nhưng sau hậu trường, anh kể rằng đó là một quá trình cực nhọc với nhiều năm bí mật làm việc và vô số những đêm ngủ không đủ.

“Sự chăm chỉ làm việc của nhóm đã được bồi hoàn lại qua việc iPhone đã làm nên lịch sử và ảnh hưởng mà nó đã, đang và sẽ có đối với cả thế giới.”

Anzures bảo rằng vấn đề sắp xếp thời gian đóng vai trò quan trọng như thời còn đi học ở Carnegie Mellon. “Lên kế hoạch thời gian là tất cả,” anh giải thích. “Tôi đã rất may mắn khi lúc đó được học với những giáo sư có các công trình vĩ đại trong ngành phần mềm, và họ đã đưa các kinh nghiệm đó vào lớp học.” Anh ta cũng cho rằng anh đã may mắn được học cùng rất nhiều bạn học tài giỏi, những người luôn biết tìm hiểu, thí nghiệm, và vui chơi.

“Môi trường ở Carnegie Mellon là nơi cho phép tôi thử thách bản thân và thử nghiệm những ý tưởng ban đầu về chuyên ngành của mình,” Anzures nói về trường. “Tôi không chỉ lấy những lớp về thiết kế máy tính, mà cả các lớp về lịch sử nghệ thuật, quản trị kinh doanh, kỹ nghệ, phim ảnh, âm nhạc, triết học và tâm lý học. Những lớp học này không chỉ có ảnh hưởng lớn đến thành quả các dự án tôi làm sau này mà còn tác động đến cách nhìn của tôi trong việc giải quyết vấn đề một cách sáng tạo dưới nhiều góc độ khác nhau.”

Anzures là một nhà thiết kế trong nhóm Giao diện Người dùng ở Apple, nhóm có trách nhiệm thiết kế Mac OS X và iPhone.

“Chúng tôi làm và chơi trên những thứ mà các bạn làm và chơi,” Anzures nói.

Read more ....

Nghề Nghiệp Trong Công Nghệ Phần Mềm



Theo những nghiên cứu mới đây, Kỹ sư Công nghệ Phần mềm là một trong những nghề được dự đoán sẽ tăng trưởng nhanh nhất trong giai đoạn 2005-2025 với nhiều cơ hội cho những ứng viên có bằng Cử nhân Công nghệ Phần mềm, Quản trị Công nghệ Thông tin, và Khoa học Máy tính. Những sinh viên muốn theo đuổi nghề làm phần mềm phải có năng lực phân tích và giải quyết vấn đề tốt. Họ cũng phải có khả năng giao tiếp hiệu quả với các thành viên trong nhóm (làm phần mềm) cũng như với khách hàng. Do sẽ thường xuyên phải đối mặt với các công tác kỹ thuật cụ thể có liên quan đến công việc kinh doanh, họ sẽ phải quan tâm đến việc phát triển thêm các kỹ năng có liên quan đến ngành họ muốn làm việc cho. Ví dụ, nếu sinh viên muốn làm cho ngân hàng, họ sẽ cần có kiến thức về tài chính để có thể hiểu được những nhu cầu tin học của nhà băng. Hay nếu sinh viên muốn làm việc cho một công ty mạng máy tính, họ sẽ cần có kiến thức về Internet, các ứng dụng web và bảo mật mạng.
 
 
Dù cho Trung Quốc và Ấn Độ đào tạo ra rất nhiều kỹ sư Công nghệ Thông tin hàng năm, thế giới vẫn cần đến 2 đến 5 triệu Kỹ sư Công nghệ Phần mềm có tay nghề cao trong giai đoạn từ 2010 đến 2015.

Hầu hết các công ty thích (tuyển) những người xin việc có ít nhất một bằng Cử nhân cùng với kiến thức rộng về các hệ thống và kỹ thuật máy tính. Chuyên ngành điển hình cho nhân công làm phần mềm là Khoa học Máy tính nhưng trong những năm gần đây, Công nghệ Phần mềm và Quản trị Hệ thống Thông tin trở nên được ưa chuộng hơn vì người ta ngày càng chú trọng nhiều hơn về quy trình phần mềm, bảo mật máy tính, quản trị dự án; đặc biệt là trong những công ty tư vấn và làm phần mềm lớn. Những sinh viên tìm kiếm cơ hội việc làm trong ngành phần mềm có thể nâng cao cơ hội tìm việc bằng cách tham gia thực tập tại các công ty phần mềm. Những trãi nghiệm như vậy sẽ cho sinh viên nhiều kinh nghiệm và kiến thức hơn, thu hút nhiều chủ doanh nghiệp tìm tuyển họ. Ở Mỹ, hơn 80% sinh viên tham gia đi thực tập trong các tháng hè so với 42% ở Âu châu và 22% ở Á châu. Khả năng có thể làm việc ngay cả trước khi tốt nghiệp (và không cần đào tạo lại) của sinh viên Mỹ do đó cho họ nhiều lợi thế hơn khi kiếm việc ở các công ty phần mềm quốc tế.

Vì công nghệ luôn thay đổi nên các công ty luôn cần nhân công có các kỹ năng tiên tiến nhất, và do đó nhân công làm phần mềm phải cố gắng không ngừng học hỏi những kỹ năng mới nếu họ muốn tồn tại được trong ngành nghề năng động này. Để có thể bắt kịp với các kỹ thuật luôn thay đổi, nhân công làm phần mềm cần học thêm các chứng chỉ giáo dục thường xuyên hay phát triển chuyên môn, được cấp bởi các trường đại học và các tổ chức huấn luyện về phần mềm. Giáo dục thường xuyên thật ra không phải là mới nhưng nó được đặc biệt khuyến khích ở Mỹ với hơn 75% nhân công làm phần mềm tận dụng các khoản ngân sách của công ty để đi học tiếp, trong khi ở Âu châu, tỷ lệ đó chỉ là 45% ở Đức và ở các nước Scandinavia, và là thấp hơn 30% ở Pháp, Tây Ban Nha, và Ý. Ở hầu hết các nước châu Á, trừ Nhật và Nam Hàn, việc học suốt đời vẫn còn là một khái niệm khá mới mẻ với rất ít nhân công chịu tiếp tục đi học để nâng cao kỹ năng của mình.

Trong nền kinh tế toàn cầu, nhiều công ty phải tiếp nhận và tích hợp những kỹ thuật mới để phát huy tối đa hiệu năng của hệ thống máy tính trong công ty, vì thế họ cần đến các Kỹ sư Công nghệ Phần mềm để tạo ra những thay đổi đó. Nhu cầu cho Kỹ sư Công nghệ Phần mềm, những người có thể làm việc được trong các công ty toàn cầu hay đi lại làm việc ở nhiều quốc gia khác nhau đã tăng lên gấp mười lần so với vài năm trước đây. Theo nhiều nghiên cứu, hầu hết mọi quốc gia đều thiếu hụt nhân công làm phần mềm, và nhu cầu của cả thế giới ước tính vào khoảng 2 đến 5 triệu Kỹ sư Công nghệ Phần mềm từ 2010 cho đến 2015, dù cho Ấn Độ và Trung Quốc ‘sản xuất’ ra đến hơn 1 triệu Kỹ sư Công nghệ Phần mềm mỗi năm. Cơ hội thăng tiến của nhân công làm phần mềm chủ yếu tùy thuộc vào mức độ kinh nghiệm. Công việc cho những người mới vào nghề chủ yếu tập trung vào lập trình và kiểm thử, nhưng khi người làm có nhiều kinh nghiệm hơn, họ sẽ có thể tham gia vào việc thiết kế và xây dựng kiến trúc phần mềm. Sau cùng, họ có thể thăng tiến lên làm Trưởng Dự án, Trưởng Hệ thống Thông tin, hoặc Giám đốc Thông tin (CIO), nếu họ được huấn luyện hoặc có các kỹ năng về kinh doanh. Một số Kỹ sư Công nghệ Phần mềm với nhiều năm kinh nghiệm sẽ có cơ hội trở thành các Kỹ sư trưởng hoặc các cố vấn độc lập. Nhu cầu cho Kỹ sư Công nghệ Phần mềm sẽ tiếp tục gia tăng cùng với sự phát triển của hệ thống mạng (máy tính). (Đặc biệt,) Sự phát triển của các công nghệ Internet (gần đây) đã làm gia tăng nhu cầu cho các Kỹ sư Công nghệ Phần mềm có khả năng phát triển các ứng dụng Internet, mạng cục bộ, và World Wide Web. Tương tự, các hệ thống xử lý thông tin điện tử trong kinh doanh, viễn thông, chính phủ, và các môi trường khác cũng ngày càng trở nên phức tạp và cao cấp hơn. Việc triển khai, bảo mật, và cập nhật các hệ thống máy tính hay giải quyết vấn đề sẽ tạo ra nhiều nhu cầu hơn nữa cho các Kỹ sư Công nghệ Phần mềm trong mảng bảo mật thông tin. Những quan ngại về “an toàn thông tin mạng” (thực sự) đã khiến nhiều công ty tiếp tục đổ tiền ra để phát triển các phần mềm bảo vệ các hệ thống máy tính và các cơ sở vật chất điện tử khác của họ khỏi các tấn công (qua mạng). Sự phát triển của công nghệ này trong vòng 10 năm tới sẽ dẫn đến sự gia tăng nhu cầu cho các Kỹ sư Bảo mật Mạng để thiết kế và phát triển các phần mềm và hệ thống có thể chạy được những ứng dụng mới cũng như tích hợp chúng vào các hệ thống cũ.

Tương tự như các thay đổi khác được tạo ra bởi sự toàn cầu hóa, vấn đề gia công phần mềm qua các quốc gia có chi phí thấp hơn có thể sẽ ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của nhiều công việc làm Công nghệ Thông tin ở các quốc gia phát triển. Nhiều công ty có thể tìm cách cắt giảm chi phí bằng cách chuyển việc qua các quốc gia bên ngoài với mức lương tiền thấp hơn và những nhân công được đào tạo (với bằng cấp) cao (hơn). Các nghề nghiệp trong Công nghệ Phần mềm sẽ ít chịu ảnh hưởng hơn bởi việc gia công ra bên ngoài so với các nghề lập trình và kiểm thử, vì Công nghệ Phần mềm đòi hỏi sự sáng tạo và nhiều kiến thức cũng như kỹ năng cao về kinh doanh, khó có thế giao cho bên ngoài làm được. Hầu hết các Kỹ sư Công nghệ Phần mềm sẽ làm các việc như phân tích yêu cầu của người dùng, thiết kế, xây dựng kiến trúc, và bảo trì các phần mềm hay hệ thống cho công ty, và giải quyết các vấn đề phát sinh khác. Các Kỹ sư Công nghệ Phần mềm sẽ thường làm một phần việc trong một nhóm phát triển phần cứng, phần mềm, hay một hệ thống mới. (Hay) Một nhóm cốt lõi sẽ bao gồm các thành viên chuyên về công nghệ, tiếp thị, xí nghiệp, và thiết kế cùng làm việc với nhau cho đến khi sản phẩm được hoàn tất. Những Kỹ sư Công nghệ Phần mềm được các công ty tư vấn hay toàn cầu mướn sẽ phải bỏ thời gian đi lại nhiều nơi để gặp gỡ với khách hàng, hơn là chỉ ngồi lì trong công sở.

Mức lương cho Kỹ sư Công nghệ Phần mềm ở Mỹ trong giai đoạn 2008-2010 vào khoảng $60,000 đến $80,000 một năm tùy thuộc và chuyên môn và bằng cấp của họ. (Sinh viên từ các trường đại học hàng đầu của nước Mỹ thường có mức lương cao so với hơn sinh viên từ các trường cấp bang.) Bằng cấp cao hơn như Thạc sĩ hay kinh nghiệm lâu năm có thể đẩy mức lương lên thêm $10,000 nữa. Đối với các kỹ sư có thể đi lại nhiều, đặc biệt là đi nhiều nước trên thế giới, mức lương có thể lên đến $100,000 cho đến $150,000 một năm cho một người có bằng (Cử nhân) Công nghệ Phần mềm và 5 năm kinh nghiệm.


Read more ....

Ý tưởng marketing thành công từ sự điên rồ và hoang dại!


Các đoạn thu hình tải lên YouTube được thực hiện bằng các máy ảnh tích hợp trong điện thoại smartphone và các đạo cụ giá rẻ đã gây được sự quan tâm không kém gì chiến dịch quảng cáo trên TV trị giá 1 triệu USD.



Nghệ thuật thu hút sự chú ý

Bất kỳ doanh nghiệp nhỏ nào cũng biết rằng khó có thể đánh giá được số tiền sử dụng cho việc marketing. Chiến dịch marketing có chi phí hiệu quả nhất là một ý tưởng truyền miệng. Lợi ích của chiến dịch kiểu này (hay còn gọi là marketing du kích) là nếu làm đúng cách, nó có thể lôi kéo bạn bè trên mạng xã hội Facebook và Twitter, báo chí địa phương và truyền thông quốc gia tham gia.

Các ý tưởng marketing du kích hay nhất đều không tốn kém. Các đoạn thu hình tải lên YouTube được thực hiện bằng các máy ảnh tích hợp trong điện thoại smartphone và các đạo cụ giá rẻ đã gây được sự quan tâm không kém gì chiến dịch quảng cáo trên TV trị giá 1 triệu USD. Bắt đầu chiến dịch đúng lúc, đúng chỗ có thể khiến bạn nổi bật không ngờ.

Chúng tôi xin giới thiệu 10 chiến dịch marketing gần đây của các nhà tiếp thị lớn và nhỏ. Tất cả đều có chung một thứ đó là: họ đã là bậc thầy trong nghệ thuật thu hút sự chú ý.

Cuộc thi Một tháng trong bảo tàng

Mục tiêu: Thu hút giới trẻ, những người hâm mộ có hiểu biết về web tới Bảo tàng Khoa học và Công nghiệp, thành phố Chicago.

Chi phí: do những người sử dụng các phương tiện truyền thông quốc gia và địa phương, những người truy cập vào trang web của bảo tàng trả.

Vào tháng 07/2010, bảo tàng Khoa học và Công nghiệp của thành phố Chicago muốn làm tăng hình ảnh và tìm nguồn bảo trợ đã hứa nếu ai đó đăng ký thi sống “một tháng trong bảo tàng” (nhưng thực ra là sống trong một căn phòng trong bảo tàng được thiết kế kiểu khách sạn) và cập nhật lên các mạng xã hội Twitter, Facebook, YouTube và Flicker các trải nghiệm của mình sẽ có cơ hội được thưởng 10.000 USD.

Bảo tàng chỉ mong có khoảng vài trăm người đăng ký với các bài luận và đoạn băng hình nhưng thực tế họ đã nhận được hơn 1.500 bài đăng ký trên khắp thế giới. Quá trình chọn ra người thắng cuộc đã thu hút hơn 400 blogs, nhiều gấp đôi so với lượng dữ liệu người hâm mộ trên mạng facebook của bảo tàng và đã lôi kéo được hãng truyền hình và phát thanh địa phương, cùng chương trình “Chào buổi sáng nước Mỹ” của kênh truyền hình ABC và các số giải trí và tin tức quốc gia khác của Mỹ tham gia đưa tin. Cuộc thi đã thành công đến nỗi mà nhà tổ chức đã quyết định thực hiện chương trình thứ hai.

Chương trình “Tủ lạnh khổng lồ” của hãng bia Heineken

Mục tiêu: Thực hiện lại một chương trình quảng cáo quen thuộc để mở rộng chiến dịch đã quen thuộc, dễ nhận diện sang các sự kiện marketing khác.

Chi phí: do hàng triệu lượt người xem YouTube trả.

Nhà sản xuất bia Heineken đã cho phát một đoạn băng hình trực tuyến vào năm 2009 với tên gọi “Tủ lạnh khổng lồ” trong đó ghi lại cảnh một nhóm các bạn gái trẻ nhảy và kêu lên đầy phấn khích khi thấy phòng thay đồ với rất nhiều quần áo và phụ kiện của nữ chủ nhà. Tại một phòng khác, những người đàn ông cũng rất phấn khích khi chứng kiến chiếc tủ lạnh khổng lồ có kích thước như một căn phòng với những kệ dài chứa đầy bia Heineken ướp đá lạnh của ông chủ.

Hãng bia Heineken sau đó đã làm mới đoạn kết của đoạn quảng cáo này. Năm 2010, hãng đã làm một chiếc tủ lạnh có kích thước to như một căn phòng và đem đến các lễ hội bia để hàng đoàn người có thể bắt chước đoạn quảng cáo và tải hình ảnh của họ lên trang YouTube. Công ty cũng tạo ra một đoạn video dài hơn quay cảnh những người đang lắp đặt một chiếc tủ lạnh khổng lồ tại một căn hộ, chiếc tủ lạnh được đặt trong một cái thùng bên ngoài tòa nhà mà không có phương tiện hỗ trợ nào.

Đây là một ví dụ tuyệt vời của việc lấy một ý tưởng tốt nhất và tìm cách làm mới nó theo thời gian. Và chi phí cũng ở mức tối thiểu vì hầu hết công sức đều do các khách hàng thực hiện - những người quay và tải những đoạn thu hình của chính mình lên các trang mạng xã hội.

“Đám đông trên máy bay” của hãng hàng không Đức Germanwwings

Mục tiêu: Thu hút sự quan tâm đối với giá vé máy bay rẻ của hãng hàng không Germanwings.

Chi phí: 400.000 lượt người xem YouTube.

Hãng hàng không giá rẻ của châu Âu- Germanwings đã chứng minh cách mà vài người với một chiếc máy ảnh Flip có thể tạo ra một đoạn băng hình quảng cáo trực tuyến cho hiệu ứng tuyệt vời với tốc độ lan truyền như một loại virus.

Hãng Germanwings đã gài một số hành khách ruột vào chuyến bay tháng 4 năm 2010 của đối thủ cạnh tranh – hãng Ryanair. Hãng Ryanair nổi tiếng trong việc cung cấp các chuyến bay giá rẻ trong phạm vi châu Âu, và cũng mang tai tiếng vì đã thu phí sử dụng toilet của hành khách. Khi các hành khách “gián điệp” này đã ổn định chỗ ngồi trong chuyến bay của hãng Ryanair, các tấm biển các-tông đồng loạt xuất hiện. Một tấm viết “tôi ghét mấy chữ “hãy tự chọn chỗ ngồi!” này”. Một tấm khác viết "Có lẽ chỉ có nhìn ra ngoài cửa sổ là không mất tiền. ” Các hành khách “gián điệp” của hãng Germanwings đã ghi lại những gì đang diễn ra cho đến khi tấm biển cuối cùng xuất hiện "Lần sau, hãy bay với Germanwings."

Một đoạn quảng cáo vừa nhanh vừa rẻ, có chăng chỉ là vài chiếc vé máy bay giá rẻ của hãng Ryannair và một chiếc máy ảnh Flip.

Sô diễn ánh sáng của Target

Mục tiêu: quảng cáo cho các sản diễn thời trang trong mùa nghỉ lễ và mùa thu năm 2010 và thu hút sự chú ý với các bộ sưu tập thời trang trong tuần lễ thời trang New York.

Chi phí: do 3.000 đi trên phố và 12,6 triệu lượt truy cập tìm kiếm thông tin trên Google trả.

Nhằm tìm kiếm sự ủng hộ đối với tuần lễ thời trang New York, Target đã thuê một số chỗ giáp mặt phố trong khách sạn Standard của quận Manhattan tại khu phố thời trang Meatpacking District để dựng nên một sân khấu có vũ công và người chỉnh nhạc (DJ) tham gia biểu diễn. Khi mặt trời lặn, đèn tắt. Vừa giật tấm phông trắng để mở màn, 66 vũ công trong trang phục day-glo (một loại trang phục bó sát để dễ di chuyển) vừa múa gần tới chỗ DJ Sam Spiegel trong lúc một màn trình diễn ánh sáng với chùm màu sắc với tên gọi là Close Encounters diễn ra.

Target đã lắp đặt các khán đài trên Little West thuộc khu phố thứ 12 để làm chỗ ngồi cho khoảng 3.000-5.000 người xem tại chỗ, mời những người nổi tiếng đến để khuấy động không khí và quay video, tải lên Web, chụp hình sự kiện để tạo hiệu ứng truyền thông và xã hội tối đa.

Thử thách của MINI với xe Porsche

Mục tiêu: Lôi kéo khách hàng tham gia.

Chi phí: do lượt xem YouTube với mức 6 con số trả;

Chi phí ngoài dự kiến: Nhà sản xuất ô-tô Hyundai nhảy vào cuộc chơi.

MINI chưa bao giờ có quảng cáo lớn trên truyền hình. Nhà sản xuất ô-tô Anh quốc do hãng BMW sở hữu đã thống lĩnh toàn bộ thị trường Mỹ từ mười năm trước qua chiến dịch marketing du kích. Mùa xuân năm 2010, giám đốc của MINI, James McDowell đã xuất hiện trong một đoạn băng hình phát trên mạng YouTube trong đó ông đã tham gia một cuộc đua với chiếc Porsche Bắc Mỹ để thử thách chiếc xe này.

Đoạn băng hình xuất hiện cả trên YouTube và trang web của MINI trên đã được quay bằng máy ảnh Flip rồi sau đó được truyền tới cho các *******s của ngành công nghiệp ô-tô hàng đầu để viết lời quảng cáo.

Và trong thế giới rộng mở của nghệ thuật marketing du kích, công ty sản xuất ô-tô thứ ba, Hyundai đã quyết định tham gia cuộc thi “tốt tự nhiên” này bằng cách tạo một đoạn băng hình thử thách xe ô-tô của hãng MINI trong một cuộc đua. Nỗ lực của Hyundai đã thu hút hơn 50.000 lượt xem và thu hút sự chú ý của giới truyền thông đối với ngành công nghiệp ô-tô, một số người còn cho rằng Hyundai là công ty tiếp thị thành công nhất trong ba công ty.

Chiến dịch nhận thức về sự ấm lên toàn cầu

Mục tiêu: Thu hút sự quan tâm tới vấn đề ấm lên toàn cầu.

Chi phí: do hàng trăm blog và các hãng truyền thông tin tức chi trả.

Các công ty nhỏ có thể học hỏi từ các tổ chức vận động và phi lợi nhuận ở cách chỉ dùng một lượng ngân sách rất nhỏ để tạo ra các chiến dịch rất độc đáo.

Thành phố Vancoucer đã có toa thuốc giải quyết thực trạng nóng lên toàn cầu khi Offsetters, một tổ chức của Canada đã có gợi ý để các công ty và các cá nhân bù đắp lại lượng khí thải carbon, tổ chức này đã đã treo các bè cứu hộ dọc theo các mặt của các tòa nhà, thiết lập các trạm cứu hộ có người gác tại các công viên trong thành phố với biển báo “Có cứu hộ”, và có các áo cứu hộ nhét dưới ghế đá công viên với biển báo tư vấn cho người qua lại.

Điều đạt được: Sự ấm lên toàn cầu không được kiểm soát sẽ làm ngập lụt các thành phố ven biển. Việc thực hiện đã không tốn kém nhiều nhưng đã tạo ra hiệu ứng gây sốc cao thu hút sự quan tâm của giới truyền thông quốc gia và địa phương. Và ý tưởng này đã hoàn toàn gắn chặt với sứ mệnh của tổ chức này.

Sự trở lại của Volta Ferrorama

Mục tiêu: Khảo sát thị trường qua một sự kiện truyền thông xã hội để xem liệu một món đồ chơi có đáng sản xuất để cho một thế hệ trẻ em mới không.

Chi phí: thông báo quyết định tái sản xuất một sản phẩm.

Công ty Volta Ferrorama của Br**il muốn sản xuất một chiếc tàu hỏa đồ chơi đã từng bị ngừng sản xuất năm 1989. Công ty mẹ của Ferrorama là Manufatura de Brinquedos Estrela nhận thấy rằng cộng đồng mạng rất mong muốn các nhãn hiệu được yêu thích tiếp tục phát triển và thắc mắc liệu món đồ chơi trên có thể thu hút một thế hệ người mua mới.

Công ty Estrela đã tham gia sự kiện, khuếch đại ý tưởng trên các trang mạng xã hội như Facebook, Twitter, và các phương tiện truyền thông tin tức và cuối cùng đã lôi kéo được hàng chục ngàn người hâm mộ, đạt tới mốc hơn 600.000 lượt xem trên You Tube, tham gia vào mục các ý tưởng thời thượng của mạng Twitter tại Br**il 3 lần.

Nhóm người hâm mộ hàng đầu của Ferrorama đã tổ chức một chuyến đưa một chiếc tàu hỏa đồ chơi vượt 20km với chỉ 110 mét đường ray. Các tình nguyện viên hăng hái di chuyển đường ray qua các dãy phố, các khu mua sắm và công viên để đoàn tàu đồ chơi không bị gián đoạn hành trình. Công ty trên đã quá ấn tượng với các phản hồi vang dội đến nỗi họ đã quyết định tái sản xuất món đồ chơi này.

Các que kem Colgate

Mục tiêu: Quảng cáo cho các sản phẩm của hãng Colgate và tăng cường vệ sinh răng miện chung.

Chi phí: thu được từ việc bán hàng cho công chúng và các vụ mua bán lớn tại các thị trường đang thực hiện chiến dịch quảng cáo này.

Văn phòng tại Thái Lan của công ty quảng cáo Young and Rubican đã có một lời nhắc nhở đầy thông minh với trẻ em. Điều này cho thấy hiệu ứng tốt khi các nhà tiếp thị của nhiều sản phẩm cùng hợp tác để thực hiện một ý tưởng hay. Colgate đã tiếp cận với một nhà sản xuất kem địa phương để sản xuất ra các que có hình dạng giống một chiếc ống kem đánh răng được đặt trong thanh kem. Khi bọn trẻ ăn gần hết que kem, chúng sẽ thấy logo của Colgate và lời nhắc nhở “Đừng quên đánh răng."

Thông điệp độc đáo của hãng Colgate và một nỗ lực dịch vụ công của một nhà sản xuất kem địa phương đã tạo một cú hích PR cho cả đôi bên.

Quảng cáo trên xe buýt của vườn thú Copenhagen

Mục tiêu: Tìm sự bảo trợ cho vườn thú để thực hiện một cuộc triển lãm đặc biệt mà không phụ thuộc quá nhiều vào các sô quảng cáo tốn kém trên TV, đài phát thanh và quảng cáo ngoài trời.

Chi phí: do 30% doanh thu phụ trội từ những người tham dự chi.

Vườn thú Copenhagen muốn quảng cáo cho triển lãm các loài bò sát mới và tăng doanh số bán vé. Vậy là cần phải quảng cáo? Hoặc là bộ phận marketing của vườn thú sẽ phải sử dụng chức năng sáng tạo của các máy in đồ họa với các tấm giấy dán khổng lồ. Các xe buýt tại thủ đo Copenhagen của Đan Mạch với những tấm giấy gói bọc quanh đã tạo cho người ta cảm giác là chúng đang bị một con trăn khổng lồ xiết chặt.

Phối hợp với các nhà quản lý trong lĩnh vực vận tải trong thành phố để thực hiện một kế hoạch thông minh như thế đã biến những chiếc xe buýt và tàu điện ngầm thành những bảng thông điệp cuôn tròn. Đây là một cách làm rất dễ thực hiện hiện nay đặc biệt là khi nhiều thành phố đang tìm kiếm nguồn thu mới. Và một bảng quảng cáo di chuyển vòng quanh thành phố cả ngày như vậy không khó để thu hút người quan tâm.

Ghi-ta ngoài trời miễn phí

Mục tiêu: Quảng cáo khai trương một đài phát thanh địa phương với chi phí thấp để thu hút giới trẻ có quan tâm đến các chương trình trên các phương tiện truyền thông.

Chi phí: do lượng truy cập hình ảnh quảng cáo trên các trang truyền thông xã hội và các blog địa phương chi trả.

Các chương trình phát thanh từ lâu đã có truyền thống là phát thanh trực tiếp các sự kiện diễn ra tại các địa điểm như các bãi biển, khu mua sắm và địa điểm trình diễn ô-tô. Qua các buổi phát thanh mọi thứ cũng trở nên dễ hình dung hơn với người nghe. Một chiến dịch quảng cáo cho chương trình phát thanh mới trên tần số FM 96.3 ở Glasgow, Scotland đã cho thấy chỉ vài đô-la và một ý tưởng sáng tạo cũng có thể lôi kéo rất nhiều sự chú ý.

Đài phát thanh này đã đặt các giá để đàn ghi-ta trống không tại nhiều nơi trong thành phố dưới một tấm biển có dòng chữ: "Ghi-ta ngoài trời miễn phí. Hãy lấy một chiếc.” Ý tưởng thông minh này đã thu hút sự chú ý ngay lập tức. Ý tưởng này nhằm quảng cáo cho một buổi phát sóng chương trình ghi-ta solo chơi theo phong cách rock ở ngoài trời, còn các thính giả radio có thể thưởng thức chương trình này ngay tại trong phòng ngủ của mình.

Hình ảnh các giá để đàn ghi-ta trống rỗng tràn ngập trên báo chí địa phương, các blogs và các trang truyền thông xã hội cùng với vô số lời bình luận diễn tả cảm tưởng khi nghe chương trình phát thanh mới.
Nguồn: Học Làm Giàu



Read more ....

Tối ưu hoá quảng cáo Google Adsense


1. Bạn nên dùng chính sách một nghề cho chín còn hơn chín nghề, đừng làm nhiều cái web quá, quản lý hông có nổi và lượng truy cập sẽ không có nhiều.

2. Nên chơi duy nhất 1 loại quảng cáo Google Adsense, vì nó cho ta sự thống nhất và dể quản lý, với lại như thế sẽ không vi phạm quy định của Google Adsense trên cùng 1 trang.

3. Hãy nhớ, nội dung là Vua, chơi Google Adsense là quan trọng. Nhưng hãy xem người truy cập là Hoàng hậu, nhưng nếu không có Vua không có người truy cập vào xem nội dung bổ ích cái web của bạn thì chẵng mấy chốc bạn sẽ không kiếm được đồng nào.

4. Sắp xếp thật hợp lý vị trí đặt Google Adsense, bạn nên làm cho người ta chú ý tức thời khi vào xem cái web của bạn, tuy cách này là tự bán khách cho người khác, nhưng nó lại cho ta một hiệu quả chơi Google Adsense tốt nhất, hãy đặt nó lên đỉnh cái website và một bên hông của bài viết, Google Adsense sẽ hiển thị tốt và sẽ cho một sự “đánh đồng” nội dung cao.

5. Nếu nội dung ngắn, bạn đặt Google Adsense ở phía trên, nội dung dài bạn đặt Google Adsense vào đâu đó bên trong nội dung, người ta sẽ có nhu cầu tìm kiếm thông tin khi đang đọc.

6. Nếu không thể dùng text như tôi đã nói, bạn buộc dùng hình ảnh thì nên chọn: 300×250 medium rectangle hoặc 160×600 wide skyscraper - hoặc cả 2 nếu bạn đặt nó để hiển thị nhiều trang.

7. Bạn chỉ có thể dán vào 1 trang như thế 3 cái Google Adsense. Một dòng link . 2 cái Search, 1 cái link sản phẩm Google Adsense, nếu bạn có thêm nó cũng chả hiện ra.

8. Nhưng dòng đầu tiên là điều quyết định Google Adsense sẽ hiển thị gì, hãy dùng h1 hay h2 cho những dòng mô tả này.

9. Nếu là hộp tìm kiếm, hãy cho nó hiển thị ra ở cửa sổ mới, điều này không có vi phạm quy định của Google Adsense, bạn không tin thì hãy mail hỏi họ sẽ biết.

10. Đa số mọi người đều nghĩ cái Search luôn nằm trên đỉnh của cái web, cho nên bạn biết đâu là nơi đặt nó rồi chứ ?

11. Nếu có thể, đừng viết hết nội dung vào 1 trang mà hãy để người ta sang trang khác để đọc, việc này sẽ giúp tăng tỷ lệ click Google Adsense hơn, vì người ta vẩn chưa tìm được cái người ta muốn, việc đó sẽ kích thích họ click vào Google Adsense hơn.

12. Dùng URL channels để check được mổi cái web riêng lẻ nếu bạn có nhiều web sài Google Adsense.25, Nếu CTR trang quá thấp, hãy xem lại cái tiêu đề và nội dung, hãy tối ưu lại nó.

13. Sử dụng Use Overture hoặc Google Adwords Keywords để xe người ta quan tâm đến từ khóa nào nhiều nhất trong lĩnh vực bang đang theo đuổi và cố tối ưu cái trang của bạn hướng theo nó.

14. Hãy dùng chương trình fix click Google Adsense để bảo vệ cái tài khoản của bạn khỏi những click xấu.

15. Hãy dùng Google sitemap, nó có cho bạn biết người dùng đến với bạn bằng các từ khóa nào, và nếu có thể hãy xem người ta quan tâm những từ khóa nào trong cái web của bạn rồi bổ sung thêm cho nó hợp lý.

16. Nếu bạn chỉ vì Google Adsense, hãy xem từ khóa nào có giá trị cao, hãy mua cái Domain có nội dung tương tự đó, rồi xem web nào quảng cáo , web nào liên quan và nội dung phong phú hơn, hãy dùng trình download, down nguyên cái html đó về và dán code Google Adsense của bạn vào. Nó không hiển thị cái nội dung có từ khóa cao đó mới lạ, cái này gọi là tận dụng chất sám.

17. Đừng có khoe khoang cái Domain bạn đang chơi Google Adsense ra đối với mọi người, vì rất dể bị ghen ăn tức ở.18. Hãy lọc đi các quảng cáo có tỷ lệ bid quá thấp 0.1$

19. Nên kiếm cái Domain nào trên 1 năm tuổi để chơi. Dưới 1 năm tuổi Google nó đánh giá độ trust thấp thì có hiển thị ads có giá trị bid cao vẫn chỉ được tầm 0.01$








Read more ....

Những điều cấm kỵ chỉ nên làm khi muốn bị treo tài khoản Adsense


1. Không được khuyến khích người ta click vào cái quảng cáo của Google Adsense dưới mọi hình thức . Google Adsense chỉ chấp nhận 2 dòng text này ở code của họ, bạn không được viết khác đi : “sponsored links” hoặc “advertisements”.
2. Không bao giờ tự click vào quảng cáo Google Adsense của bạn, Đừng F5 (refresh) cái site của bạn quá mức, vì Google Adsense không chấp nhận site đang hoàn thiện, bạn có thể kiểm tra cái code hiển thị thế nào bằng công cụ Google Adsense Sandbox Tool.
3. Không được dán cái Google Adsense vào pop-up windows, trang đang lổi hoặc trang trống.
4. Không bao giờ bạn kiếm được nhiều tiền chỉ vì Google Adsense, hãy đi theo chủ đề bạn có khả năng. Thu nhập Google Adsense sẽ tự đến với bạn.
5. Không bao giờ thay đổi các đoạn HTML mà Google Adsense cung cấp cho bạn.
6. Bạn nên làm vài hình ảnh gì đó liên quan đến cái chủ đề web bạn đang theo đuổi, đặt bên cạnh Google Adsense, làm sao cho người ta lầm tưởng các mô tả và đường link của Google Adsense là dẩn tới cái nội dung hình ảnh bạn đang mô tả. ( Google cấm dùng).
7. Dòng link trên cùng của bạn, nên làm 1 dòng link của Google Adsense, nó hay đấy chứ ? ( ).


Read more ....

Các qui định chung người chơi Adsense cần chú ý


1. Điều lệ của Google Adsense luôn ghi rõ : Khi chơi đẹp không cần gian lận bạn sẽ có nguồn thu lớn từ quảng cáo google
2. Luôn tuân thủ các quy định của Google Adsense, bạn tuyệt đối không được vi phạm, vì nghĩ đơn giản Google Adsense người ta chơi nhiều thế quản lý sao nổi, nhận định này là cực kỳ sai lầm vì không ai tự dưng mở két nhà người ta cho bạn lấy tiền.
3. Bạn phải làm cho nội dung cái quảng cáo của Google trông như một phần của cái website của bạn, người ta ghét cái cảm giác click quảng cáo giúp 1 ai đó thu lợi nhuận, nhưng họ lại muốn tìm kiếm thông tin hửu ích cho mình.
4. Đừng có tách rời cái quảng cáo Google Adsense ra, bạn nên làm cho nó với màu link và màu nền trùng với cái web của bạn.
5. Lượng truy cập, bạn đừng có tìm cách qua mặt Google Adsense với những trò click ảo, vì giải thuật tính toán của nó hết sức thông minh, bạn hông tin ư.
6. Thời gian, chính là thước đó của giá trị 1 click bao nhiều đồng, vào site click liền sẽ có giá trị thấp hơn là đọc nội dung hoặc vài phút sau click. Bởi thế bạn thấy một số site lớn, kinh nghiệm nó đặt Google Adsense ít nhưng giá trị cao.



Read more ....

Các toán tử, biểu thức điều kiện, lập ...trong java



Một chương trình thực tế bao hàm việc tạo ra các biến. Các toán tử kết hợp các giá trị đơn giản hoặc các biểu thức con thành những biểu thức mới, phức tạp hơn và có thể trả về các giá trị. Điều này có hàm ý tạo ra các toán tử luận lý, số học, quan hệ và so sánh trên các biểu thức.
Java cung cấp nhiều dạng toán tử.Chúng bao gồm:
 Toán tử số học
 Toán tử dạng bit
 Toán tử quan hệ
 Toán tử luận lý
 Toán tử điều kiện
 Toán tử gán

1.1 Các toán tử số học
Các toán hạng của các toán tử số học phải ở dạng số. Các toán hạng kiểu Boolean không sử dụng được, song các toán hạng ký tự cho phép sử dụng loại toán tử này. Một vài kiểu toán tử được liệt kê trong bảng dưới đây.
Chương trình sau mô tả việc sử dụng toán tử số học
Trích:
class ArithmeticOp {
public static void main(String args[]){
int p=5,q=12,r=20,s;
s=p+q;
System.out.println(“p+q is”+s);
s=p%q;
System.out.println(“p%q is”+s);
s*=r;
System.out.println(“s*=r is”+s);
System.out.println(“Value of p before operation is”+p);
p++;
System.out.println(“Value of p after operation is”+p);
double x=25.75,y=14.25,z;
z=x-y;
System .out.println(“x-y is” +z);
z-=2.50;
System.out.println(“z-=2.50 is “+z);
System.out.println(“Value of z before operation is”+z);
z--;
System.out.println(“Value of z after operation is”+z);
Z=x/y;
System .out.println(“x/y is” +z);
}
}
Đầu ra của chương trình là
p+q is 17
p%q is 5
s*=r is 100
Value of p before operation is 9.0
Value of z after operation is 8.0
x/y is 1.8070175438596429
1.2. Toán tử Bit
Các toán tử dang Bit cho phép ta tạo những Bit riêng biệt trong các kiểu dữ liệu nguyên thuỷ. Toán tử Bit dựa trên cơ sở đại số Boolean. Nó thực hiện phép tính trên hai đối số là các bit để tạo ra một kết qủa mới. Một vài dạng toán tử kiểu này được liệt kê dưới đây
1.3. Các toán tử quan hệ
Các toán tử quan hệ kiểm tra mối quan hệ giữa hai toán hạng. Kết quả của một biểu thức có dùng các toán tử quan hệ là những giá trị Boolean (logic “đúng” hoặc “sai”). Các toán tử quan hệ được sử dụng trong các cấu trúc điều khiển.
Đoạn chương trình sau đây mô tả việc sử dụng các toán tử quan hệ
Trích:
class RelationalOp {
public static void main (String args[]){
float a= 10.0F;
double b=10.0;
if (a= = b)
System.out.println(a and b are equal”);
else
System.out.println(“a and b are not equal”);
}
}
Kết quả chương trình sẽ hiển thị
a and b are not equal
Trong chương trình trên cả a và b là những số có dấu phẩy động, dạng dữ liệu có khác nhau, a là kiểu float còn b là kiểu double. Tuy vậy chúng không phải là cùng một kiểu. Bởi vậy khi kiểm tra giá trị của các toán hạng, kiểu dữ liệu cần phải được kiểm tra.
1.4. Các toán tử logic
Các toán tử logic làm việc với các toán hạng Boolean. Một vài toán tử kiểu này được chỉ ra dưới đây
1.5. Các toán tử điều kiện
Toán tử điều kiện là một loại toán tử đặc biệt vì nó gồm ba thành phần cấu thành biểu thức điều kiện
Câu lệnh sau đây kiểm tra có những người đi làm bằng vé tháng có tuổi lớn hơn 65 không và gán một tiêu chuẩn cho họ. Nếu những người này có tuổi là 55, tiêu chuẩn gán là “Regular”
CommuterCategory=(CommuterAge>65)?”Senior Citizen”: “Regular”
1.6. Toán tử gán
Toán tử gán (=) dùng để gán một giá trị vào một biến. Bạn nên gán nhiều giá trị đến nhiều biến cùng một lúc.
Ví dụ đoạn lệnh sau gán một giá trị cho biến num. Thì giá trị trong biến num được gán cho nhiều biến trên một dòng lệnh đơn.
int num = 20000;
int p,q,r,s;
p=q=r=s=num;
Dòng lệnh cuối cùng được thực hiện từ phải qua trái. Đầu tiên giá trị ở biến num được gán cho ‘s’, sau đó giá trị của ‘s’ được gán cho ‘r’ và cứ tiếp như vậy.
1.7. Thứ tự ưu tiên của các toán tử
Các biểu thức được viết ra nói chung gồm nhiều toán tử. Thứ tự ưu tiên quyết định trật tự thực hiện các toán tử trên các biểu thức. Bảng dưới đây liệt kê thứ tự thực hiện các toán tử trong Java
1.8. Thay đổi thứ tự ưu tiên
Để thay đổi thứ tự ưu tiên trên một biểu thức, bạn có thể sử dụng dấu ngoặc đơn (). Từng phần của biểu thức được giới hạn trong ngoặc đơn được thực hiện trước tiên. Nếu bạn sử dùng nhiều ngoặc đơn lồng nhau thì toán tử nằm trong ngoặc đơn phía trong sẽ thực thi trước, sau đó đến các vòng phía ngoài. Nhưng trong phạm vi một ngoặc đơn thì quy tắc thứ tự ưu tiên vẫn giữ nguyên tác dụng.


Read more ....